Sản xuất lúa năm 2022 - Kết quả từ sự thay đổi

|

Sản xuất lúa năm 2022 - Kết quả từ sự thay đổi

Năm 2022, bất chấp những khó khăn do ảnh hưởng của hậu dịch Covid-19, giá nguyê;n vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất tăng cao, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như hạn hán, lũ lụt, xâm nhập mặn,... song nông nghiệp Việt Nam vẫn tăng trưởng ổn định, trong đó có đóng góp lớn của ngành trồng trọt mà trọng tâm là sản xuất lúa. Từ những kết quả tích cực trong quá trình tái cơ cấu hoạt động sản xuất lúa và triê;̉n khai hiệu quả nhiều nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng suất, đảm bảo hiệu quả trong gieo trồng, thu hoạch đã giúp cho cây lúa tiếp tục khẳng định tầm quan trọng và đóng vai trò là cây lương thực chính trong mục tiê;u phát triê;̉n nông nghiệp của Việt Nam, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu.
 
Đánh giá của Tổng cục Thống kê; cho biê;́t, năm 2022 ngành nông, lâm nghiê;̣p và thủy sản vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ổn định, trê;n 3%. Năng lực sản xuất các sản phẩm nông, lâm, thủy sản hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiê;u dùng của gần 100 triê;̣u dân. Trong đó, sản lượng lúa thu hoạch năm 2022 của Viê;̣t Nam ước đạt 42,66 triê;̣u tấn, ngoài phục vụ nhu cầu lương thực trong nước, vẫn xuất khẩu 6,5-7 triê;̣u tấn, qua đó góp phần đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.

Do tiê;́p tục triê;̉n khai có hiê;̣u quả Đề án Tái cơ cấu ngành, chuyê;̉n đổi theo kê;́ hoạch diê;̣n tích đất trồng lúa kém hiê;̣u quả hoặc không cân đối được nguồn nước sang trồng rau, màu, cây ăn quả hoặc kê;́t hợp nuôi trồng thủy sản đê;̉ có hiê;̣u quả kinh tê;́ cao hơn nê;n diê;̣n tích lúa cả năm ước đạt 7,1 triê;̣u ha, giảm 127,7 nghìn ha so với năm 2021. Năng suất lúa ước đạt 60,2 tạ/ha, giảm 0,6 tạ/ha; sản lượng lúa đạt 42,66 triê;̣u tấn, giảm 1,19 triê;̣u tấn; trong đó, giảm 0,89 triê;̣u tấn do giảm diê;̣n tích đất trồng lúa và giảm 0,3 triê;̣u tấn do giảm năng suất. Mặc dù vậy, hiê;̣u quả sản xuất trê;n 1 đơn vị diê;̣n tích không ngừng tăng lê;n qua các năm. Giá trị sản phẩm trê;n 1 ha đất trồng trọt năm 2022 đạt 104,2 triê;̣u đồng/ha, tăng 0,6% so với năm 2021.

Diê;̣n tích trồng lúa vụ đông xuân 2022 cả nước đạt 2.975,6 nghìn ha, giảm 30,9 nghìn ha so với vụ đông xuân năm 2021; năng suất đạt 67,1 tạ/ha, giảm 1,5 tạ/ha, sản lượng đạt 19.980,3 nghìn tấn, giảm 648,5 nghìn tấn. Kê;́t quả sản xuất lúa đông xuân năm 2022 kém hơn năm 2021 do cả diê;̣n tích và năng suất đều giảm. Diê;̣n tích gieo trồng lúa đông xuân giảm do các địa phương thực hiê;̣n chuyê;̉n đổi mục đích sử dụng đất sang đô thị hóa, hoặc chuyê;̉n sang trồng các loại cây khác có giá trị kinh tê;́ cao hơn. Một số địa phương có diê;̣n tích gieo cấy lúa mùa giảm nhiều là Hà Nội giảm 3,1 nghìn ha; Hưng Yê;n giảm 1,4 nghìn ha; Hà Nam giảm 1,1 nghìn ha, Thanh Hòa giảm 1,6 nghìn ha, Nghê;̣ An giảm 4,6 nghìn ha.

 


 
Ngoài ra, do giá phân bón, thuốc bảo vê;̣ tăng cao nê;n người dân chuyê;̉n sang dùng các loại phân hữu cơ tự chê;́ và giảm lượng phân bón tổng hợp cũng ảnh hưởng tới năng xuất lúa. Thê;m vào đó, mưa to và ngập úng ở khu vực Bắc Trung Bộ và Duyê;n hải miền Trung cuối tháng 3/2022, cùng với xâm nhập mặn vào thời điê;̉m cuối vụ ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long cũng là những yê;́u tố khiê;́n cho năng suất và sản lượng lúa vụ đông xuân giảm.

Về kê;́t quả sản xuất lúa vụ hè thu: Diê;̣n tích gieo trồng lúa hè thu 2022 cả nước ước đạt 1.914,7 nghìn ha, giảm 38,1 nghìn ha so với vụ hè thu năm 2021; năng suất đạt 56,6 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha; sản lượng đạt 10,8 triê;̣u tấn, giảm 304,3 nghìn tấn. Trong đó, tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long, diê;̣n tích gieo trồng lúa hè thu đạt 1.476,1 nghìn ha, giảm 32,9 nghìn ha; năng suất đạt 56,5 tạ/ha, giảm 1,4 tạ/ha; sản lượng đạt 8,34 triê;̣u tấn, giảm 314 nghìn tấn.
 
Diê;̣n tích và sản lượng lúa hè thu giảm nhiều nhất từ vùng Đồng bằng sông Cửu Long (chiê;́m 77% diê;̣n tích và 77,2% sản lượng lúa hè thu của cả nước). Nguyê;n nhân kê;́t quả sản xuất cây lúa vụ hè thu giảm do giảm diê;̣n tích, chi phí đầu vào tăng cao, người dân giảm diê;̣n tích xuống giống, chuyê;̉n đổi diê;̣n tích đất lúa kém hiê;̣u quả, cho năng suất thấp sang các cây trồng khác khác kinh tê;́ hơn như như trồng cây ăn quả (cây dừa, cam sành, ổi, thanh long, mít...), trồng màu dưới chân ruộng, trồng cỏ, nuôi trồng thủy sản và một số diê;̣n tích đất do sản xuất lúa kém nê;n các hộ dân bỏ vụ… Bê;n cạnh đó, năng suất lúa hè thu giảm còn do mưa lớn và giông gió đã làm ảnh hưởng lúa giai đoạn ngậm sữa - chín bị đổ ngã; các loại sâu bê;̣nh xuất hiê;̣n như: rầy nâu, nhê;̣n gié, bê;̣nh đạo ôn, bê;̣nh do vi khuẩn, bê;̣nh lem lép hạt xuất hiê;̣n nhiều.

Đối với lúa mùa năm 2022: Đây là vụ mùa bội thu của sản xuất lúa. Trong đó, diê;̣n tích gieo trồng lúa mùa cả nước năm 2022 đạt 1.553,1 nghìn ha, tăng 11,9 nghìn ha so với vụ mùa năm 2021; năng suất khá cao so với các năm trước, đạt 52,9 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; sản lượng ước đạt 8,21 triê;̣u tấn, tăng 151,9 nghìn tấn. Năng suất lúa vụ mùa tăng do các địa phương đã chủ động ứng phó với biê;́n đổi khí hậu. Măc dù lượng mưa lớn nhưng các địa phương đã chủ động xây dựng kịch bản điều tiê;́t nươ??c; chuẩn bị tốt nhất các điều kiê;̣n phục vụ công tác chống ngập úng như duy tu, bảo dưỡng trạm bơm điê;̣n, máy bơm dã chiê;́n, máy bơm di động... sẵn sàng tham gia phòng, chống úng, hạn cục bộ khi cần thiê;́t đê;̉ sản xuất vụ mùa đạt kê;́t quả tốt, hạn chê;́ thấp nhất thiê;̣t hại do các yê;́u tố bất lợi của thời tiê;́t gây ra. Bê;n cạnh đó, vụ mùa năm 2022 không bị ảnh hưởng nhiều bởi hạn mặn như năm trước, nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Đối với lúa vụ thu đông tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long: Diê;̣n tích gieo trồng lúa thu đông năm 2022 đạt 648,7 nghìn ha, giảm 70,6 nghìn ha so với vụ thu đông 2021; năng suất toàn vụ đạt 56 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha; sản lượng đạt 3,63 triê;̣u tấn, giảm 390 nghìn tấn so với vụ thu đông năm 2021. Diê;̣n tích gieo trồng lúa thu đông 2022 giảm so với cùng kỳ năm 2021 do sản xuất vụ này không được ổn định, nguồn nước không chủ động. Mặt khác vụ lúa thu đông năm 2022 cũng bị tác động tiê;u cực bởi giá các loại phân bón, vật tư đầu vào phục vụ sản xuất tăng, ảnh hưởng bất lợi của tình hình thời tiê;́t... nê;n người dân bỏ đất hoặc chuyê;̉n đổi lúa sản xuất kém hiê;̣u quả sang trồng cây lâu năm khác.

Có thê;̉ thấy, nhìn chung diê;̣n tích gieo trồng và năng suất lúa năm 2022 giảm so với năm 2021 đã dẫn đê;́n sản lượng lúa năm 2022 giảm, song sản xuất lúa năm 2022 vẫn đáp ứng nhu cầu tiê;u dùng trong nước, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ chê;́ biê;́n và xuất khẩu. Sản xuất lúa đã chuyê;̉n từ phát triê;̉n chiều rộng là tăng năng suất, sản lượng sang phát triê;̉n chiều sâu theo hướng nâng cao chất lượng, hiê;̣u quả, bền vững. Đặc biê;̣t, theo đánh giá quá trình tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo đã được triê;̉n khai thực hiê;̣n rất thành công. Mô hình trồng lúa chất lượng cao được nhân rộng ở nhiều địa phương; vùng lúa chất lượng cao được tổ chức lại sản xuất, đẩy mạnh hợp tác, liê;n kê;́t theo chuỗi đê;̉ giảm chi phí, gia tăng giá trị các khâu trong quá trình sản xuất, chê;́ biê;́n và tiê;u thụ sản phẩm. Nê;́u như nhiều năm trước, nước ta chỉ mới cơ cấu 35 đê;́n 40% các giống lúa chất lượng thì hiê;̣n nay con số này đã đạt 75 đê;́n 80%, thậm chí tại nhiều địa phương, viê;̣c sử dụng giống lúa chất lượng lê;n đê;́n hơn 90%. Sản lượng các giống lúa có chất lượng cao tiê;́p tục nâng dần tỷ trọng trong cơ cấu của nhóm sản phẩm. Một số sản phẩm chủ yê;́u như thóc chất lượng cao, thóc nê;́p tăng tỷ trọng trong nhóm thóc từ 23,0% năm 2020 lê;n 28,6% năm 2022 (theo số liê;̣u ước tính năm 2022). Đây là một trong những nguyê;n nhân chính nâng cao chất lượng gạo, đưa giá gạo xuất khẩu của Viê;̣t Nam tăng lê;n rất nhanh.

Bê;n cạnh đó, với sự chỉ đạo quyê;́t liê;̣t của ngành Nông nghiê;̣p, các cơ quan chuyê;n môn đã có hướng dẫn giúp các địa phương tính toán khung thời vụ phù hợp nhằm đảm bảo an toàn, hiê;̣u quả cao đối với sản xuất nông nghiê;̣p nói chung và sản xuất lúa nói riê;ng. Tích cực đẩy mạnh cơ giới hóa, áp dụng đồng bộ tiê;́n bộ kỹ thuật và quy trình canh tác tiê;n tiê;́n đê;̉ giảm bớt chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; tăng cường thông tin, dự báo thời tiê;́t, cập nhật liê;n tục tình hình lũ, triều cường; hỗ trợ, khuyê;́n khích người dân sản xuất lúa chất lượng cao. Các giống lúa được khuyê;́n cáo ưu tiê;n sử dụng là giống lúa thơm, chiê;́m tỷ lê;̣ 30% trong cơ cấu giống như Jasmine 85, nhóm giống ST, Nàng Hoa 9, VD20, Đài Thơm 8... Giống lúa chủ lực xuất khẩu chiê;́m tỷ lê;̣ 50-60% gồm OM5451, OM6976, OM18, OM 7347, OM4900... Hạn chê;́ xuống giống lúa nê;́p và nhóm giống giống chất lượng trung bình như IR 50404, OM 576.

Các chuyê;n gia cho rằng, những thành công từ sự thay đổi trong sản xuất lúa thời gian qua là do đã triê;̉n khai áp dụng hiê;̣u quả một số giải pháp, cụ thê;̉ như: Chọn giống lúa chất lượng cao, là những giống lúa có khả năng chống chọi tốt, cứng cây, bông chùm, đẻ nhánh khỏe, ít nhiễm sâu bê;̣nh, có mùi thơm nhẹ, dễ tiê;u 
thụ trê;n thị trường; Áp dụng đồng bộ các biê;̣n pháp kỹ thuật: chọn thời điê;̉m gieo cấy đê;̉ cây lúa trổ vào thời kỳ thích hợp nhất, tác động bằng các biê;̣n pháp kỹ thuật đê;̉ cây lúa có số nhánh hữu hiê;̣u cao, cho số nhánh thành bông nhiều nhất, các bông to đều và số hoa tạo thành hạt với tỷ lê;̣ cao nhất, ít hạt lép; bón phân tập trung, kịp thời khi nhánh lúa bắt đầu đẻ nhánh; Phòng trừ các loại bê;̣nh hại ngay từ khi lúa bắt đầu trổ bông; Giữ mức nước trê;n ruộng đủ ẩm, chỉ nê;n rút khô ruộng khi lúa đã vào giai đoạn chín; Chọn đúng thời điê;̉m thu hoạch; Lựa chọn yê;́u tố đầu vào (giống, phân bón, thuốc bảo vê;̣ thực vật, công nghê;̣, lao động...) đê;̉ hạ giá thành sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân, người nông dân cần mua lúa giống, phân bón, thuốc bảo vê;̣ thực vật, phải chọn nơi uy tín, có thương hiê;̣u trê;n thị trường…/.
Trần Thị Thu Trang
Vụ Thống kê; Tổng hợp và Phổ biến Thông tin thống kê;-TCTK
Giải trí Xổ số Việt Nam Link